logo
2 Trang12>
Thần Thánh
SuTieu Offline
#1 Đã gửi : 22/02/2011 lúc 10:42:25(UTC)

Danh hiệu: Gà Trưởng Thành

Gia nhập: 18-02-2011(UTC)
Bài viết: 110
Đến từ: SinhCat.,JSC

Cảm ơn: 10 lần
Được cảm ơn: 25 lần trong 22 bài viết
Thần thánh

Tín ngưỡng phương Đông là đa thần chứ không phải độc thần như phương Tây. Tự nhiên vốn là chính nó, chỉ có những con người (hoặc thậm chí con vật, cây cối) có khả năng nhất định thì chi phối điều khiển được nó, bắt nó phục vụ theo ý của mình, chứ không thể sáng tạo ra nó cũng như tiêu diệt nó. Do đó không chỉ một mà nhiều người cùng có khả năng điều khiển một yếu tố tự nhiên.
Số lượng các vị thần thánh là nhiều vô cùng. Hầu như không có vị thần nào cai quản được tất cả những gì thuộc về mình. Thủy đức tinh quân cai quản về nước, nhưng khi nước do thần này đổ ra chảy xuống rồi thì cũng không thể thu lại, mà nước lại phải lấy từ sông hồ, do các Long vương cai quản. Hỏa đức tinh quân cai quản về lửa, có các vật dụng phóng hỏa, nhưng không có quyền với lửa trong lò bát quái, lửa tam muội nhà phật.
Các vị thần thánh trên trời chi phối những yếu tố thuộc về tự nhiên. Do sự du nhập của Phật giáo, rất nhiều thần thánh Trung hoa có gốc từ Ấn Độ, cũng định ra 33 tầng trời, mà vị vua là Ngọc Hoàng thượng đế, có vị trí là Thiên chủ giống như Đế Thiên Đế Thích (Indra) chứ không phải Đấng sáng tạo. Trên trời, một cơ cấu xã hội được định ra giống như dưới mặt đất. Có các thứ bậc cao thấp, có tranh chấp, chiếm đoạt, giết chóc, cũng lấy nhau sinh con đẻ cái. Có vị thần nhỏ bé hạ tiện phải hầu hạ vị thần cao cấp hơn, thưởng phạt, thăng quan tiến chức. Chư Thần hoàn toàn là một xã hội, một xã hội tưởng tượng mà người trần mơ ước, nơi họ làm những công việc theo quyền hạn và nghĩa vụ, và không.phải lo cuộc sống vật chất.

Bên cạnh thần thánh còn có bậc tiên. Đó là những người tu luyện đạt đến mức độ hòa nhập với thiên nhiên, trường sinh bất lão. Tiên không có chức vụ, tự do hơn thần nhưng cũng ít quyền lực hơn thần.
Các thiên thể trên trời đều có thần thánh cai quản. Nhưng họ cũng chỉ có vai trò là người đại diện. Sự chuyển động của các thiên thể không phải do họ quyết định, mà là tự thân thiên thể đó vận hành. Đường đi của Mặt trời, Mặt trăng không phải do Thái dương, Thái âm Tinh quân thay đổi được. Khi các vị này có việc rời khỏi “mảnh đất” của mình (do Ngọc Hoàng sai bảo chẳng hạn) thì các thiên thể vẫn di chuyển bình thường.
Trong cuốn truyện “Phong thần”, có thể thấy việc gán những con người vào với các thiên thể như thế nào. Vai trò các thần chỉ giới hạn ở việc cai quản sự vật với con người dưới mặt đất mà thôi.
Thần thánh tiên dù là bậc trường sinh bất lão và có thể bất tử, nhưng vẫn có một khái niệm bao trùm lớn hơn là Số Mệnh. Thậm chí có thể gọi đó là Thiên Mệnh, là Trời. Đó là quy luật khách quan, cái đã vận hành sinh ra vũ trụ, mà thần thánh cũng chỉ là một bộ phận nhỏ của tự nhiên, không thể nằm ngoài quy luật đấy.
Nếu Số Mệnh đã đến, thì Tôn Ngộ Không cũng có thể làm Thượng đế được.
(Khi có Phật giáo truyền vào, thì mới hình thành tư tưởng vượt ngoài vòng Số Mệnh đó).
Khi mới đến Trung hoa, các giáo sĩ phương Tây đã phải dùng danh xưng Thượng đế để gọi Đấng sáng tạo, sau đó mới đổi thành Thiên Chúa, để khác biệt với các vị Thượng đế vốn chỉ là các thần.

Một số thần thánh quan trọng

• Ngọc Hoàng thượng đế: hiệu đầy đủ là Cao Thiên thượng thánh Đại từ Nhân giả Ngọc hoàng Đại thiên tôn Huyền khung Cao Thượng đế.
• Trung thiên Bắc Cực Tử vi Đại đế (có người đồng nhất với Ngọc Hoàng)
• Thác Tháp Lý thiên vương (Lý Tĩnh): đứng đầu về đánh trận
• Tứ đại thiên vương gồm: Tăng Trường, Quảng Mục, Đa Văn, Trì Quốc, coi giữ 4 cửa trời Đông Tây Nam Bắc (4 vị này lấy từ Ấn Độ)
• Cửu Diệu tinh quân: gồm Thái Âm, Thái Dương tinh chủ thiên vương đế quân và Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ tinh quân
• Nhị thập bát Tú
• Tam thập lục Lôi thần
• Tứ trực Công tào: Thời (giờ), Nhật (ngày), Nguyệt (tháng), Tinh (năm)
• Ngũ nhạc Thiên tề Đại đế
• Tam thanh, Tứ đế, Ngũ lão, Lục ty, Thất nguyên, Bát Cực, Cửu diệu, Thập đô


(*) Thời Thái cổ, ngôi vị Hoàng và Đế chỉ dành cho các vị vua huyền thoại. Hai chữ này vốn có nghĩa là người được tôn quý ở bên trên (như mặt trời) và được mọi người nghe theo. Các vị Vua thời Thượng cổ Hạ Thương Chu xưng là Vương, Chữ Vương gồm 3 vạch ngang và 1 vạch dọc nối lại, với ngụ ý vua là người liên kết cả Trời ở trên, Đất ở dưới, và Người ở giữa. Khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, coi mình công vượt Tam hoàng, đức hơn Ngũ đế, nên mới ghép lại thành ngôi vị Hoàng đế. Ngoài ra trong nghĩa cổ, Hậu cũng có nghĩa là vua, sau mới dành riêng để gọi phụ nữ.
2 người cảm ơn SuTieu cho bài viết.
xiaofeng trên 22-02-2011(UTC) ngày, ThyThy trên 22-02-2011(UTC) ngày
ThyThy Offline
#2 Đã gửi : 22/02/2011 lúc 11:33:57(UTC)

Danh hiệu: Gà Giò

Gia nhập: 24-01-2011(UTC)
Bài viết: 22
Man
Đến từ: Xòn Gài

Thanks: 12 times
Được cảm ơn: 4 lần trong 4 bài viết
Thy Thy có cái không đúng chủ đề lắm nhưng cũng xin đưa 1 chút ý kiến:
Xem phim Tây Du Ký, thì thấy phật giáo có:
Phật: Phật tổ như lai

Bồ Tát: Quan thế âm bồ tát

La Hán: La Hán hàng long, phục hổ

vậy tu hành thế nào thì sẽ trở thành La Hán, thành Bồ Tát???
và thêm nữa theo Thy Thy được biết thì Phật Di Lặc chưa thành phật, mà chỉ là Bồ Tát. Vậy có phải là Bồ Tát rồi mới thành Phật?
SuTieu Offline
#3 Đã gửi : 23/02/2011 lúc 09:32:36(UTC)

Danh hiệu: Gà Trưởng Thành

Gia nhập: 18-02-2011(UTC)
Bài viết: 110
Đến từ: SinhCat.,JSC

Cảm ơn: 10 lần
Được cảm ơn: 25 lần trong 22 bài viết
Originally Posted by: ThyThy Go to Quoted Post
Thy Thy có cái không đúng chủ đề lắm nhưng cũng xin đưa 1 chút ý kiến:
Xem phim Tây Du Ký, thì thấy phật giáo có:
Phật: Phật tổ như lai

Bồ Tát: Quan thế âm bồ tát

La Hán: La Hán hàng long, phục hổ

vậy tu hành thế nào thì sẽ trở thành La Hán, thành Bồ Tát???
và thêm nữa theo Thy Thy được biết thì Phật Di Lặc chưa thành phật, mà chỉ là Bồ Tát. Vậy có phải là Bồ Tát rồi mới thành Phật?


SuTieu trả lời ThyThy từng phần nhé.

Về Thập Bát La Hán (18 vị La Hán)

1. La Hán Ba Tiêu

2. La Hán Bố Đại

3. La Hán Cử Bát

4. La Hán Hàng Long

5. La Hán Khai Tâm

6. La Hán Kháng Môn

7. La Hán Khánh Hỷ

8. La Hán Khoái Nhĩ

9. La Hán Kỵ Tượng

10. La Hán Phục Hổ

11. La Hán Quá Giang

12. La Hán Thác Tháp

13. La Hán Thám Thủ

14. La Hán Tiếu Sư

15. La Hán Tĩnh Tọa

16. La Hán Tọa Lộc

17. La Hán Trầm Tư

18. La Hán Trường Mi

Chi tiết từng vị và cách tu hành để thành La Hán:
1. La Hán Ba Tiêu

Tên của Ngài là Phạt-na-bà-tư 伐那婆斯 (Vanavāsin). Theo truyền thuyết khi mẹ Ngài vào rừng viếng cảnh, mưa to dữ dội và bà hạ sanh Ngài trong lúc ấy. Sau khi xuất gia với Phật, Ngài thích tu tập trong núi rừng, thường đứng dưới các cây chuối nên còn được gọi là La-hán Ba Tiêu.

Có lần, đức Phật hàng phục con yêu long trong một cái đầm sâu. Cảm phục ân đức của Phật, yêu long xin Ngài lưu lại chỗ của mình để được gần gũi cúng dường. Phật dạy Ngài không thể ở một nơi lâu, nên cử năm vị Đại A-la-hán đến, đó là các vị Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Nhân-kiệt-đà, Tô-tần-đà và Phạt-na-bà-tư. Khi tôn giả Phạt-na-bà-tư đến tiếp nhận lễ vật cúng dường, Ngài thường thích tọa thiền trên phiến đá lớn bên cạnh đầm, khi thì ngồi suốt tuần, lúc ngồi cả nửa tháng.

Theo lời phó chúc của đức Phật, Tôn giả lưu tâm hóa độ vua Ca-nị-sắc-ca. Nhân dịp nhà vua đi săn, Tôn giả hóa làm con thỏ trắng dẫn đường cho vua đến gặp một mục đồng đang lấy bùn đất nặn tháp Phật. Mục đồng nói rằng Phật thọ ký 400 năm sau vua Ca-ni-sắc-ca sẽ xây tháp thờ Phật tại đây. Mục đồng ấy cũng chính là Phạt-na-bà-tư hóa hiện. Từ đó, vua trở nên bậc đại quân vương hoằng dương Phật pháp, xây chùa tháp tự viện, ủng hộ cúng dường Tăng chúng, tổ chức kiết tập kinh điển Phật giáo lần thứ tư tại thủ đô Ca-thấp-di-la. Tất cả những thành tựu này đều nhờ thâm ân giáo hóa của tôn giả Phạt-na-bà-tư.

Theo Pháp Trụ Ký, tôn giả Phạt-na-bà-tư là vị La-hán thứ mười bốn, ngài và 1.400 vị La-hán thường ở trong núi Khả Trụ.

2. La Hán Bố Đại

Tên của Ngài là Nhân-yết-đà 因羯陀 Nhân-kiệt-đà (Angada). Theo truyền thuyết Ngài là người bắt rắn ở Ấn Độ, xứ này nhiều rắn độc hay cắn chết người, Ngài bắt chúng, bẻ hết những răng nanh độc rồi phóng thích lên núi. Hành động ấy phát xuất bởi lòng từ cao độ, nên Ngài được xem như biểu trưng của từ bi. Sau khi đắc đạo, Ngài thường mang một túi vải bên mình để đựng rắn, cũng trùng hợp như Hòa thượng Bố Đại ở Trung Hoa.

Nhân có một người nước Ô-trượng-na muốn tạc tượng Bồ-tát Di-lặc, nhưng chưa được thấy diện mạo Bồ-tát nên không dám làm. Ông lập hương án trong vườn hoa chí thành khấn nguyện, cung thỉnh một vị Hiền Thánh đến để giúp ông. Khấn xong thì có một vị La-hán xuất hiện xưng tên là Nhân-yết-đà, đến đưa ông lên cung trời Đâu-suất để gặp Bồ-tát Di-lặc. Tôn giả đã đưa người này lên cung trời trước sau cả thảy ba lần để chiêm ngưỡng chân tướng trang nghiêm của Bồ-tát. Tượng Bồ-tát tạo xong được bảo tồn tại thủ đô nước Ô-trượng-na, đó là nhờ công ơn của Tôn giả.

La-hán là bậc bất sanh bất diệt, đến đi tự tại, các Ngài du hóa nhân gian dưới mọi hình thức. La-hán Bố Đại có hình tướng mập mạp, bụng to, túi vải lớn bên mình như là hiện thân của Bồ-tát Di-lặc, trong câu chuyện trên đã có ít nhiều liên hệ.

Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ mười ba, thường cùng 1.300 vị A-la-hán trụ trong núi Quảng Hiếp.

3. La Hán Cử Bát

Tên của Ngài là Ca-nặc-ca-bạt-ly-đọa-xà 迦諾迦跋釐墮蛇 (Kanakabharadvāja). Ngài là vị Đại đệ tử được đức Phật giao phó giáo hóa vùng Đông Thắng Thần Châu.

Quốc vương nước Tăng-già-la ở Nam Hải không tin Phật pháp, Tôn giả Ca-nặc-ca tìm cách hóa độ. Một sớm mai, khi đang cầm gương soi mặt, quốc vương giật mình kinh sợ vì trong gương không có mặt mình mà có hình dáng vị đại sĩ Bạch Y. Đây là do phép thần biến của Tôn giả. Theo lời khuyên của quần thần, nhà vua cho tạc tượng Bồ-tát Quan Thế Âm để thờ phụng và từ đó hết lòng tin Phật.

Ngài Huyền Trang khi sang Ấn Độ, trú tại chùa Na-lan-đà nghe kể câu chuyện sau: Sau khi Phật Niết-bàn vài trăm năm, quốc vương nước Ma-kiệt-đà làm lễ lạc thành ngôi chùa Đại Phật, thỉnh mấy ngàn vị Hòa thượng đến cúng dường. Khi mọi người bắt đầu thọ trai, bỗng nhiên có hai vị Hòa thượng từ không trung bay xuống. Cả hội chúng kinh ngạc, vua hỏi lai lịch thì một vị xưng là Tân-đầu-lô ở Tây-cù-da-ni châu, một vị xưng là Ca-nặc-ca ở Đông Thắng Thần Châu. Vua vui mừng thỉnh hai Tôn giả chứng minh trai phạn. Thọ trai xong, hai vị cười nói:

- Này các vị, 16 La-hán chúng tôi sẽ mãi mãi lưu lại thế gian, cùng tu tập với tất cả Phật tử chí thành đời sau.

Tôn giả Ca-nặc-ca thường mang một cái bát sắt bên mình khi du hành khất thực, nên được gọi là La-hán Cử Bát.

Theo Pháp Trụ Ký ngài là vị La-hán thứ ba, thường cùng 600 vị A-la-hán trú tại Đông Thắng Thần Châu.

4. La Hán Hàng Long

Ngài tên là Nan-đề-mật-đa-la 難提密多 (Nandimitra), Trung Hoa dịch Khánh Hữu, ra đời sau Phật diệt độ 800 năm, cư trú tại nước Sư Tử.

Ngài là vị Đại La-hán thần thông quảng đại, đạo hạnh trang nghiêm. Tương truyền có một lần cả đảo Sư Tử bị Long Vương dâng nước nhận chìm, Tôn giả ra tay hàng phục rồng nọ và được tặng hiệu La-hán Hàng Long. Khi Ngài sắp thị tịch, mọi người buồn thương lo sợ vì thế gian sẽ không còn bậc La-hán. Ngài cho biết có 16 vị La-hán vâng lệnh Phật lưu trụ cõi Ta-bà để ủng hộ Phật pháp. Lời dạy của Ngài được ghi chép lại thành bộ “Pháp Trụ Ký”. Nói “Pháp Trụ Ký” xong, tôn giả Khánh Hữu bay lên không trung hóa hiện vô số thần biến, rồi dùng chơn hỏa tam-muội thiêu thân. Xá-lợi ngũ sắc rơi xuống như mưa, mọi người tranh nhau lượm mang về tôn thờ cúng dường.

Tuy đã thiêu thân, nhưng Tôn giả không rời nước Sư Tử, Ngài bay về động đá trên núi để tọa thiền. Thời gian thoáng chốc đã hơn 400 năm, khi Tôn giả xuất định Ngài ôm bát xuống núi khất thực thì thấy phong cảnh đã đổi khác. Ngài nhẫm tính lại và khám phá ra mình đã tọa thiền hơn 400 năm bèn bật cười ha hả. Sau đó Ngài thường xuất hiện khắp nơi, khi thì trì bát, lúc thì giảng kinh… Mọi người vẫn còn tin rằng Ngài vĩnh viễn không rời thế gian mà luôn luôn cùng 16 vị La-hán kia tiếp tục hoằng hóa.

* Dị bản: Tôn giả Nan-đề-mật-đa-la là vị La-hán thứ 17, do mọi người tưởng nhớ công ơn ngài nói ra Pháp Trụ Ký.

5. La Hán Khai Tâm

Hình tượng vạch áo bày ngực để hiển lộ tâm Phật. Ngài tên là Thú-bác-ca 戍博迦 (Jivaka). Thú-bác-ca vốn là một Bà-la-môn nổi danh, nghe nói thân Phật cao một trượng sáu, Thú-bác-ca không tin nên chặt một cây trúc dài đúng một trượng sáu để đích thân đo Phật. Lạ thay, dù đo bất cứ cách nào, thân Phật vẫn cao hơn một chút. Thú-bác-ca tìm một cây thang dài rồi leo lên thang đo lại, kết quả cũng vậy. Đo đến mười mấy lần, không còn cây thang nào dài hơn mà thân Phật vẫn cao hơn. Lúc này ông thiệt tình khâm phục và xin quy y làm đệ tử.

Sau khi xuất gia, trải qua bảy năm khổ hạnh, Ngài chứng quả A-la-hán. Vì muốn kỷ niệm nhân duyên đo Phật mà xuất gia ngộ đạo, Ngài lấy cây sào lúc trước, đi đến chỗ cũ nói:

- Nếu Phật pháp là chân lý ngàn đời thì xin cây sào này mọc lại và sinh trưởng ở đây.

Nói xong, Ngài cắm cây sào xuống đất. Cây sào bỗng nẩy chồi ra lá. Thời gian sau từ chỗ đó mọc lên một rừng trúc tốt tươi lan rộng cả vùng, người ta gọi nơi ấy là Trượng Lâm. Quần chúng Phật tử kéo đến chiêm bái chứng tích mầu nhiệm của cây gậy đo Phật. Nơi đây rừng núi khô cằn hoang dã, thiếu nước uống nghiêm trọng, tôn giả Thú-bác-ca liền vận thần thông biến ra hai suối nước một nóng, một lạnh để mọi người tha hồ sử dụng. Hai suối này nằm cách mười dặm về phía Tây Nam của Trượng Lâm. Dân chúng vùng này mãi nhớ ơn đức của Tôn giả.

Theo Pháp Trụ Ký, ngài Thú-bác-ca là vị La-hán thứ chín, thường cùng 900 vị La-hán trụ trong núi Hương Túy.

6. La Hán Kháng Môn

Tên của Ngài là Chú-trà-bán-thác-ca, hay Châu-lợi-bàn-đặc 周利槃特 (Cullapatka). Truyền thuyết Phật giáo nhắc đến Ngài như một tấm gương cần cù nhẫn nại. Vì không thông minh như anh nên khi xuất gia Ngài không tiếp thu được Phật pháp, kể cả xếp chân ngồi thiền cũng không xong. Về sau được sự chỉ dạy lân mẫn của Thế Tôn, Ngài thực hành pháp môn quét rác với cây chổi trên tay. Nhờ sự kiên trì, dốc tâm thực hành lời dạy của Phật, quét sạch mọi cấu uế bên trong lẫn bên ngoài, Ngài đã chứng Thánh quả.

Một hôm đại thần Kỳ-bà thành Vương Xá thỉnh Phật và các vị A-la-hán đến nhà thọ trai. Tôn giả Bán-thác-ca không biết em mình đã chứng quả nên không phát thẻ tham dự. Đến khi chuẩn bị thọ trai, Phật bảo Bán-thác-ca về tinh xá xem có sót người nào. Tôn giả về Trúc Lâm thì thấy cả ngàn vị Hòa thượng đang tọa thiền rải rác trong vườn. Ngạc nhiên và dùng thiên nhãn quán sát, mới vỡ lẽ ra đó là trò đùa của em mình, Tôn giả mừng rỡ xúc động, tán thán công phu của Châu-lợi-bàn-đặc.

Theo truyền thuyết, khi đi khất thực Tôn giả gõ cửa một nhà nọ và làm ngã cánh cửa cũ hư. Điều này cũng gây bối rối! Về sau, Phật trao cho Tôn giả một cây gậy có treo những chiếc chuông nhỏ để khỏi phải gõ cửa nhà người. Nếu chủ nhân muốn bố thí thì sẽ bước ra khi nghe tiếng chuông rung. Cây gậy gõ cửa trở thành biểu tượng của Tôn giả, và là hình ảnh quen thuộc trong sinh hoạt Phật giáo.

Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả là vị La-hán thứ mười sáu, cùng với 1.600 vị A-la-hán thường trú tại núi Trì Trục.

7. La Hán Khánh Hỷ

Ngài tên là Ca-nặc-ca-phạt-tha 迦諾 迦伐磋 (Kanakavatsa), còn gọi là Yết-nặc-ca-phược-sa. Đức Phật thường khen Ngài là vị La-hán phân biệt thị phi rõ ràng nhất. Khi chưa xuất gia Ngài là người rất tuân thủ khuôn phép, giữ gìn từ lời nói đến hành động, một ý nghĩ xấu cũng không cho phát khởi. Sau khi xuất gia, Ngài càng nỗ lực tinh tấn tu tập, nhờ thiện căn sâu dày Ngài chứng quả A-la-hán rất mau.

Ngài thường đi du hóa khắp nơi với gương mặt tươi vui và dùng biện tài thuyết pháp để chiêu phục chúng sanh. Thấy mọi người thường vô ý tạo nhiều nghiệp ác hằng ngày, tương lai bị quả khổ địa ngục nên khi thuyết pháp Ngài thường xiển minh giáo lý nhân quả thiện ác, giúp chúng sanh phân biệt rõ ràng để sửa đổi. Một lần nọ đi ngang qua thôn trang, thấây một gia đình đang giết vô số trâu dê gà vịt để làm lễ mừng thọ. Ngài ghé lại, thuyết giảng một hồi về phương pháp chúc thọ, về cách mừng sinh nhật để được sống lâu hạnh phúc, đền đáp ơn sinh thành. Ngài dạy rằng, ngày sinh nhật là ngày khó khăn khổ nhọc của mẹ, nên phận làm con không được ăn uống vui chơi, trái lại nên tịnh tâm suy niệm ân đức cha mẹ, quyết chí tu tập thành tựu đạo nghiệp.

Bằng cách giảng dạy chân thật, Tôn giả suốt đời như ngọn hải đăng đem ánh sáng Phật pháp soi rọi nhân sinh.

Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ hai, thường cùng 500 vị La-hán trụ tại nước Ca-thấp-di-la (Kashmir).

8. La Hán Khoái Nhĩ

Ngài tên là Na-già-tê-na 那伽犀那 (Nāgasena) hay còn gọi là Na Tiên. Nāgasena theo tiếng Phạn nghĩa là đội quân của rồng và tượng trưng sức mạnh siêu nhiên. Ngài Na Tiên sinh trưởng ở miền Bắc Ấn là bậc La-hán nổi tiếng về tài biện luận. Đương thời của Ngài gặp lúc vua Di-lan-đà cai trị, nhà vua là người Hy Lạp vốn chuộng biện thuyết. Nghe tiếng tôn giả Na Tiên là bậc bác học đa văn nên nhà vua đích thân phỏng vấn. Cuộc vấn đạo giữa bậc đế vương và bậc Tỳ-kheo thoát tục đã để lại cho chúng ta một tác phẩm bất hủ “Kinh Na Tiên Tỳ Kheo”, mà cả hai tạng Nam truyền và Bắc truyền đều lưu giữ đến nay. Nhờ sự chỉ dạy của tôn giả Na Tiên mà cuối cùng vua Di-lan-đà trở thành vị quốc vương anh minh hết lòng ủng hộ Phật pháp.

Có chỗ nói ngài Na Tiên chuyên tu về nhĩ căn, tranh tượng của Ngài mô tả vị La-hán đang ngoáy tai một cách thú vị. Mọi âm thanh vào tai đều giúp cho tánh nghe hiển lộ, rất thường trụ và rất lợi ích. Từ nhĩ căn viên thông phát triển thiệt căn viên thông, trở lại dùng âm thanh thuyết pháp đưa người vào đạo, đó là ý nghĩa hình tượng của tôn giả Na Tiên.

Theo Pháp Trụ Ký, Ngài cũng là vị La-hán thứ mười hai, thường cùng 1.200 vị A-la-hán trụ trong núi Bán-độ-ba.

9. La Hán Kỵ Tượng

Tên của Ngài là Ca-lý-ca 迦哩迦 (Kalica), trước khi xuất gia làm nghề huấn luyện voi. Khi Tôn giả chứng quả A-la-hán, đức Phật bảo Ngài nên ở tại quê hương mình (Tích Lan) để ủng hộ Phật pháp.

Phật đến Tích Lan thuyết kinh Lăng Già, Tôn giả cũng là một trong số đệ tử đi theo. Đức Phật sắp rời đảo, vua Dạ-xoa cung thỉnh đức Phật để lại một kỷ niệm tại đảo để làm niềm tin cho hậu thế. Thế Tôn ấn dấu chân của mình trên một ngọn núi, nơi đó trở thành Phật Túc Sơn, và bảo tôn giả Ca-lý-ca gìn giữ thánh tích này. Phật Túc Sơn nổi tiếng khắp nơi, mọi người đua nhau chiêm lễ. Trải qua thời gian nó bị chìm vào quên lãng, con đường dẫn lên núi bị cỏ hoang phủ kín. Trong dịp vua Tích Lan là Đạt-mã-ni-a-ba-á bị kẻ địch rượt đuổi nên chạy trốn vào hang núi, Tôn giả hóa thành một con nai hoa rất đẹp dụ dẫn nhà vua lên núi để hiển lộ lại dấu chân Phật. Sau nhiều triều đại kế tiếp, Phật Túc Sơn lại không người viếng thăm. Tôn giả một phen nữa hóa thành thiếu nữ bẻ trộm hoa trong vườn của vua. Khi bị bắt, thiếu nữ chỉ tay lên ngọn núi phủ sương mờ, bảo rằng mình hái hoa cúng Phật ở trên ấy. Phật Túc Sơn từ đó khắc sâu hình ảnh trong lòng người, mỗi năm đến ngày 15 tháng 3 âm lịch, quần chúng kéo nhau đi lễ bái thánh tích rầm rộ không ngớt.

Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Ca-lý-ca là vị La-hán thứ bảy, cùng với 1.000 vị A-la-hán luôn thường trụ tại Tăng Già Trà Châu (Tích Lan).

10. La Hán Phục Hổ

Tên của Ngài là Đạt-ma-đa-la 達磨多羅 (Dharmatrāta), người ở núi Hạ Lan tỉnh Cam Túc. Thuở nhỏ Đạt-ma-đa-la đến chùa, rất thích chiêm ngưỡng hình tượng 16 vị La-hán thờ trong điện. Sư phụ cũng hay kể cho cậu bé nghe những chuyện thần kỳ của các vị La-hán, dần dần trong tánh linh trẻ thơ in đậm hình ảnh các Ngài, thậm chí khi ngủ cũng mơ thấy.

Một hôm trong khi đang chiêm lễ, Đạt-ma-đa-la bỗng thấy các hình tượng La-hán cử động, vị thì quơ tay, vị thì chớp mắt như người thật. Ngỡ mình hoa mắt, Đạt-ma-đa-la định thần nhìn kỹ lại, lần này thấy rõ hơn, một số vị còn cười tươi tắn. Từ đó Đạt-ma-đa-la càng thêm siêng năng lễ kỉnh, và ngày nào cũng được chứng kiến các kỳ tích cảm ứng. Đạt-ma-đa-la theo hỏi một vị La-hán cách tu tập để được trở thành La-hán. Ngài chỉ dạy cậu nên siêng năng tọa thiền, xem kinh, làm các việc thiện. Đạt-ma-đa-la phát tâm tu hành, thực hiện lời dạy của bậc La-hán nên chẳng bao lâu chứng quả.

Thành một A-la-hán thần thông tự tại, Ngài thường du hóa trong nhân gian, giảng kinh thuyết pháp, gặp tai nạn liền ra tay cứu giúp. Tôn giả ba lần thu phục một con hổ dữ đem nó về núi cho tu, đi đâu thì dẫn theo. Bên cạnh hình tượng Ngài người ta vẽ thêm một con hổ, Ngài thành danh La-hán Phục Hổ.

La-hán Hàng Long và La-hán Phục Hổ là hai vị được đưa thêm vào danh sách Thập Lục La-hán, để trở thành một truyền thuyết vĩnh viễn được tôn thờ.

11. La Hán Quá Giang

Tên của Ngài là Bạt-đà-la 跋陀羅 (Bhadra). Bạt-đà-la còn gọi là Hiền, vì mẹ Ngài hạ sanh Ngài dưới cây Bạt-đà, tức là cây Hiền.

Theo truyền thuyết, Tôn giả rất thích tắm rửa, mỗi ngày tắm từ một đến mười lần, và như vậy rất mất thời gian đồng thời trễ nải công việc. Chẳng hạn khi mọi người thọ trai, Ngài lại đi tắm, khi lên ăn thì cơm rau đã hết. Nhiều buổi tối, Ngài lén đi tắm khi mọi người đang tọa thiền. Thậm chí ngủ nửa đêm cũng thức dậy đi tắm, có khi một đêm tắm năm, sáu lần! Việc này đến tai đức Phật. Thế Tôn kêu Tôn giả đến bên, chỉ dạy cách tắm rửa thiết thực, nghĩa là ngoài việc tẩy rửa thân thể còn phải tẩy rửa cấu uế trong tâm, gột sạch các tham sân phiền não để cả thân tâm đều thanh tịnh.

Tiếp nhận lời Phật dạy, Tôn giả hành trì theo ý nghĩa đích thực của việc tắm rửa, siêng năng gột rửa tâm nên chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Từ đó tắm rửa là một pháp tu hữu dụng thiết thực mà Tôn giả thường khuyên dạy mọi người. Các tự viện Trung Hoa thường thờ hình tượng Ngài trong nhà tắm để nhắc nhở ý nghĩa phản tỉnh tư duy.

Tôn giả cũng thường dong thuyền đi hoằng hóa các quần đảo của miền đông Ấn Độ như Java, Jakarta… nên được mang tên La-hán Quá Giang.

Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị La-hán thứ sáu, thường cùng 900 vị A-la-hán trụ tại Đam-một-la-châu.

12. La Hán Thác Tháp

Tên của Ngài là Tô-tần-đà 蘇頻陀 (Subinda). Thường ngày, Ngài tu tập rất tinh nghiêm, giúp người nhiệt tình nhưng ít thích nói chuyện. Tôn giả ít khi đi theo đức Phật ra ngoài, Ngài chỉ ở yên nơi tinh xá đọc sách hoặc quét sân. Có người phê bình cách nói chuyện của Ngài không hay, đức Phật biết được an ủi: “Này Tô-tần-đà! Nói chuyện hay hoặc dở không liên quan gì đến vấn đề giác ngộ. Mọi người chỉ cần y theo lời ta dạy mà thực hành, dù không nói câu nào cũng thành tựu sự giải thoát”.

Đúng thật là Tôn giả hiếm khi lãng phí thời gian vào việc tán gẫu, chỉ dành trọn thời gian tọa thiền nên chứng quả A-la-hán rất sớm.

Đương thời vua nước Án-đạt-la muốn xây dựng một tinh xá u tịch tại núi Hắc Phong, nhưng tìm không ra những tảng đá lớn. Tôn giả chỉ cần vận thần thông trong một đêm, mang đến vô số đá rất lớn từ bên kia sông Hằng. Quốc vương lại muốn tạo một pho tượng thật lớn bằng vàng tôn trí trong tinh xá nhưng kho lẫm quốc gia không đủ cung ứng. Tôn giả chỉ cần nhỏ vài giọt nước xuống mấy phiến đá, chúng đều biến thành vàng. Quốc vương vui mừng gọi thợ giỏi nhất, đến lấy vàng đúc tượng để nhân dân chiêm lễ.

Năm trăm năm sau Phật diệt độ, Tôn giả nhiều lần hiện thân tại nước Kiện-đà-la để giáo hóa. Hình tượng Ngài được tạo với bảo tháp thu nhỏ trên tay, tháp là nơi thờ xá-lợi Phật, giữ tháp bên mình là giữ mạng mạch Phật pháp, vì thế Ngài được gọi là La-hán Nâng Tháp.

Theo Pháp Trụ Ký, ngài Tô-tần-đà là vị La-hán thứ tư, thường cùng 700 vị A-la-hán phần nhiều trụ ở Bắc Câu Lô Châu.

13. La Hán Thám Thủ

Hình tượng đưa hai tay lên rất sảng khoái của một vị La-hán sau cơn thiền định. Ngài tên là Bán-thác-ca? 半託迦 (Panthaka), Trung Hoa dịch: Đại lộ biên sanh. Ngài là anh của Châu-lợi-bàn-đặc. Tương truyền hai anh em đều sanh ở bên đường, khi mẫu thân trở về quê ngoại sinh nở theo phong tục Ấn Độ.

Bán-thác-ca lớn lên là một thanh niên trí thức, nhân mỗi khi theo ông ngoại đi nghe Phật thuyết pháp, bèn có ý định xuất gia. Được gia đình chấp thuận, Ngài gia nhập Tăng đoàn, trở thành một vị Tỳ-kheo tinh tấn dõng mãnh, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Nhớ đến em mình là Châu-lợi-bàn-đặc, Ngài trở về hướng dẫn em xuất gia. Rất tiếc, thời gian đầu thấy em mình quá dốt nên Ngài khuyên em hoàn tục. Đó cũng là vì tình thương và trách nhiệm nên Tôn giả đối xử như thế, hoàn toàn không phải giận ghét.

Về sau, khi Châu-lợi-bàn-đặc chứng Thánh quả, chính Tôn giả Bán-thác-ca là người mừng hơn ai hết. Cả hai anh em dẫn nhau về pháp đường, đại chúng cảm động tán thán ngợi khen. Đức Phật dạy: “Này Bán-thác-ca và Châu-lợi-bàn-đặc, khó ai được như hai anh em các ông, vừa cùng xuất gia học đạo, vừa tận trừ phiền não lậu hoặc, chứng quả A-la-hán. Sau này hai ông nên đồng tâm hiệp lực lưu lại nhân gian để hoằng dương Phật pháp”.

Hai tôn giả vâng lời Phật nên thường tùy hỷ hóa độ chúng sanh.

Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Bán-thác-ca là vị La-hán thứ mười, Ngài thường cùng 1.100 vị A-la-hán trụ ở Tất-lợi-dương-cù-châu.

14. La Hán Tiếu Sư

Tên của Ngài là Phạt-xà-la-phất-đa-la 伐闍羅弗多羅 (Vajraputra). Tương truyền khi còn ở thế tục, Ngài làm nghề thợ săn, thể lực rất tráng kiện, một tay có thể nâng một con voi, hoặc nắm một con sư tử ném xa hơn 10 mét. Mỗi khi muông thú chạm mặt Ngài, chúng đều hoảng sợ lánh xa. Sau khi xuất gia, Ngài nỗ lực tu tập, chứng quả La-hán. Lại có một con sư tử thường quấn quýt bên Ngài, do đó Ngài được biệt hiệu La-hán Đùa Sư Tử.

Về phía Bắc tinh xá Trúc Lâm có ao Ca-lan-đà, nước trong mát có thể trị lành được nhiều bịnh, đức Phật vẫn thường đến đó thuyết pháp. Sau khi Phật diệt độ, nước ao bỗng cạn khô, ngoại đạo bèn phao tin rằng Phật pháp đã suy vi. Tôn giả Phạt-xà-la-phất-đa-la từ châu Bát-thích-noa bay đến, lấy tay chỉ xuống ao, lập tức nước đầy trở lại. Tôn giả bảo mọi người rằng:

- Nước ao cạn khô vì mọi người không có niềm tin kiên cố nơi Phật pháp. Nếu tất cả đều vâng lời Phật dạy, một lòng tín thọ phụng hành như khi Phật còn tại thế thì tôi bảo đảm nước trong ao sẽ không bao giờ cạn khô.

Mọi người nghe Tôn giả nói, ngưỡng vọng uy thần và nhiệt tâm hộ trì Phật pháp của Tôn giả nên phát khởi lòng tin Tam bảo. Từ đó nước ao luôn trong xanh và tràn đầy.

Qua câu chuyện trên chúng ta có thể thấy các bậc La-hán luôn ở tại nhân gian để xiển dương pháp Phật.

Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị La-hán thứ 8, thường cùng 1.100 vị La-hán? trụ ở châu Bát-thích-noa.

15. La Hán Tĩnh Tọa

Tên của Ngài là Nặc-cù-la 諾矩羅 (Nakula). Trên vách hang thứ 76 của động Đôn Hoàng có vẽ hình tượng Ngài ngồi kiết già trên phiến đá. Theo truyền thuyết, Ngài thuộc giai cấp Sát-đế-lợi sức mạnh vô song, đời sống chỉ biết có chiến tranh chém giết. Khi theo Phật xuất gia, Ngài đạt quả A-la-hán trong tư thế tĩnh tọa.

Đương thời của Tôn giả, có ngoại đạo Uất-đầu-lam-tử, công phu thiền định cao, từng biện bác với hy vọng chinh phục Tôn giả theo pháp thuật của mình. Nhưng với niềm tin chân chánh, Tôn giả khẳng định rằng chỉ có công phu tọa thiền, quán chiếu bằng trí tuệ, sức nhẫn nhục bền bỉ, nghiêm trì tịnh giới mới đạt được định lực không thối chuyển. Pháp tu luyện ngoại đạo chỉ được định lực tạm thời, không thể an trú vĩnh viễn trong pháp giải thoát, khi gặp cảnh bên ngoài quấy nhiễu sẽ bị hủy hoại.

Sau này quả nhiên Uất-đầu-lam-tử thọ hưởng sự cúng dường nồng hậu của vua nước Ma-kiệt-đà, vì khởi vọng tâm mà toàn bộ công phu tiêu tán, sau khi chết lại rơi vào địa ngục. Tôn giả Nặc-cù-la dùng thiên nhãn thấy rõ điều ấy, một lần nữa cảnh giác với vua Ma-kiệt-đà:

- Đó chính là pháp tu không rốt ráo của ngoại đạo, những phiền não căn bản của con người chưa được diệt trừ hết.

Vua nghe Tôn giả giải thích mới hiểu được Phật pháp chân chánh đáng quý, phát khởi niềm tin nơi Tôn giả.

Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Nặc-cự-la được xếp vào vị trí La-hán thứ năm, Ngài thường cùng 800 vị A-la-hán trụ ở Nam Thiệm Bộ Châu.

16. La Hán Tọa Lộc

Ngài tên là Tân-đầu-lô-phả-la-đọa 賓頭盧頗羅墮 (Pindolabhāradvāja), xuất thân dòng Bà-la-môn, là một đại thần danh tiếng của vua Ưu Điền. Ngài thích xuất gia nên rời bỏ triều đình vào rừng núi nỗ lực tu tập, sau khi chứng Thánh quả cỡi hươu về triều khuyến hóa vua, nhân đó được tặng danh hiệu La-hán Cỡi Hươu.

Nhân một hôm Tôn giả dùng thần thông lấy cái bát quý treo trên cây trụ cao của một trưởng giả, bị Phật quở trách việc biểu diễn thần thông làm mọi người ngộ nhận mục đích tu học Phật pháp. Phật dạy Tôn giả phải vĩnh viễn lưu lại nhân gian để làm phước điền cho chúng sanh, vì thế trong các pháp hội Tôn giả thường làm bậc ứng cúng. Một lần ở thời Ngũ Đại, triều vua Ngô Việt thiết trai, có một Hòa thượng lạ, tướng mạo gầy ốm, lông mày dài bạc trắng bay đến ngồi vào chỗ dành cho khách quý mà ăn uống vui vẻ. Ăn xong Ngài tuyên bố Ngài là Tân-đầu-lô. Dưới thời vua A-dục và vua Lương Võ Đế, Ngài đích thân hiện đến giáo hóa, làm tăng trưởng lòng tin. Thời Đông Tấn ngài Đạo An là bậc cao tăng phiên dịch kinh điển thường lo buồn vì sợ chỗ dịch của mình sai sót. Ngài khấn nguyện xin chư Hiền Thánh hiển lộ thần tích để chứng minh. Tối hôm đó Ngài nằm mộng thấy một vị Hòa thượng lông mày trắng nói:

- Ta là Tân-đầu-lô ở Ấn Độ, lấy tư cách là một đại A-la-hán, ta bảo chứng những kinh điển ông dịch đều rất chính xác.

Tôn giả Tân-đầu-lô là một vị La-hán rất gần gũi nhân gian, Pháp Trụ Ký xếp Ngài là vị La-hán thứ nhất, thường cùng 1.000 vị La-hán trụ ở Tây Ngưu Hóa Châu.

17. La Hán Trầm Tư

Ngài chính là La-hầu-la 羅喉羅 (Rāhula). Sau khi theo Phật xuất gia, nhờ sự giáo dưỡng của Thế Tôn, Ngài bỏ dần tập khí vương giả và thói xấu trêu ghẹo người, nỗ lực tu tập để chứng Thánh quả. Ngài luôn khiêm cung nhẫn nhục, không thích tranh cãi hơn thua, phòng của mình bị người chiếm ở, Ngài lẳng lặng dời vào nhà xí ngủ qua đêm. Đi khất thực bị bọn côn đồ ném đá trúng đầu chảy máu, Ngài lặng lẽ đến bờ suối rửa sạch rồi tự tay băng bó. Tín chủ cúng cho Ngài một tịnh thất, ít lâu sau đòi lại đem cúng người khác, Ngài cũng bình thản? dọn ra khỏi phòng.

Sau khi chứng quả A-la-hán, Ngài vẫn lặng lẽ tu tập. Đức Phật khen tặng Ngài là Mật hạnh đệ nhất và chọn Ngài vào trong số 16 La-hán lưu lại nhân gian. Với đức tánh lặng lẽ, Ngài được tặng danh hiệu La-hán Trầm Tư.

Sau Phật diệt độ, vua nước Câu-thi-na không tin Phật pháp, đập phá chùa viện, thiêu hủy kinh tượng, số người xuất gia giảm sút. Có một Hòa thượng ôm bát vào thành khất thực, nhưng cả thành chẳng ai để ý tới, khó khăn lắm Ngài mới gặp một gia đình tin Phật cúng cho bát cháo nóng. Hòa thượng hớp xong miếng cháo thở dài, thí chủ hỏi thăm thì được Hòa thượng kể lại thời Phật còn tại thế, Ngài cũng từng theo Phật đến đây khất thực, lúc ấy nhà nhà tranh nhau cúng dường, khác hẳn ngày nay. Hòa thượng tiết lộ thân thế mình chính là La-hầu-la, mấy trăm năm nay dốc lòng hoằng dương Phật pháp.

Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị la-hán thứ mười một, thường cùng 1.100 vị A-la-hán trụ ở Tất-lợi-dương-cù châu.

18. La Hán Trường Mi

Tên của Ngài là A-thị-đa 阿氏多 (Ajita) thuộc dòng Bà-la-môn nước Xá-vệ. Theo truyền thuyết khi Ngài mới sanh ra đã có lông mày dài rủ xuống, điều báo hiệu kiếp trước Ngài là một nhà sư. Sau khi theo Phật xuất gia, Ngài phát triển thiền quán và chứng A-la-hán.

Ngài cũng là một trong những thị giả Phật, khi chứng quả xong vẫn thường du hóa trong dân gian. Một hôm đến nước Đạt-ma-tất-thiết-đế, nhân dân nước này không tin Phật pháp, chỉ thờ quỷ thần sông núi. Thái tử nước này bệnh nặng, vua cho mời danh y trị bệnh và thỉnh giáo các nhà tu ngoại đạo. Các vị ấy bảo: “Đại vương chớ lo, bệnh của Thái tử không cần uống thuốc cũng khỏi.” Khi gặp tôn giả A-thị-đa, vua hỏi thử thì Tôn giả bảo rằng bệnh không qua khỏi. Vua rất tức giận bỏ đi. Một tuần sau, Thái tử chết thật, vua tạm thời không tổ chức tang lễ, ngày hôm sau vua đi gặp tôn giả A-thị-đa, Ngài chia buồn với vua, còn khi vua gặp các ngoại đạo thì lại nghe chúc mừng Thái tử hết bệnh. Điều này chứng tỏ các ngoại đạo không có dự kiến đúng đắn. Nhà vua từ đó quy ngưỡng Phật pháp. Nhờ sự hoằng dương của Tôn giả mà Phật pháp hưng thịnh ở nước này.

Đã hơn 2.000 năm, nhưng tại Ấn Độ vẫn tin rằng tôn giả A-thị-đa còn đang trị bệnh cho người hay tọa thiền trên núi.

Pháp Trụ Ký xếp Ngài là vị La-hán thứ mười lăm, thường cùng 1.500 A-la-hán trụ trong Linh Thứu Sơn.
1 người cảm ơn SuTieu cho bài viết.
ThyThy trên 23-02-2011(UTC) ngày
SuTieu Offline
#4 Đã gửi : 23/02/2011 lúc 09:41:17(UTC)

Danh hiệu: Gà Trưởng Thành

Gia nhập: 18-02-2011(UTC)
Bài viết: 110
Đến từ: SinhCat.,JSC

Cảm ơn: 10 lần
Được cảm ơn: 25 lần trong 22 bài viết
ThyThy và mọi người có thể xem chi tiết về sự tích của 18 vị la hán tại đây
http://www.thientongviet...hTBLaHan/index-uni.html

Thực ra chỉ có 16 vị thôi, Tô Đông Pha đã cao hứng sáng tác thêm 2 vị nữa.

Sự kiện “sáng tác” thêm xảy ra cách nay khoảng hơn 1.000 năm, vào thời Ngũ Đại. Không hiểu vì lẽ gì, thay vì vẽ 16 vị la hán, Trương Huyền lại vẽ tượng mười tám vị La-hán. Ðến triều nhà Tống, đại văn hào Tô Ðông Pha phát hiện những bức tượng đó ở đất Ðam Nhĩ (tức Nam Hải sau này) nên cao hứng làm mười tám bài tán ca ngợi nhưng không nhắc đến danh hiệu của vị nào cả. Sau đó không lâu, Hòa thượng Quán Hưu cũng vẽ tượng mười tám vị La-hán. Khi Tô Ðông Pha từ Nam Hải trở về, lúc đi ngang qua chùa Bảo Lâm ở Thanh Hiệp thì nhìn thấy bức họa này. Nhân tiện, ông lại viết tiếp mười tám bài tán nữa và lần này có gọi tên của từng vị. Ông qui vị thứ mười bảy là Tôn giả Nan-đề-mật-đa-la, vị thứ mười tám là Tôn giả Tân-đầu-lô. Đáng tiếc Tô Ðông Pha không biết rằng “Tân-đầu-lô” chính là tên gọi tắt của “Tân-độ-la-bạt-la-nọa-xà”, vị La-hán đầu tiên trong mười sáu vị. Trước đó, Trương Huyền và Hòa thượng Quán Hưu “sáng tác” vị thứ mười bảy cũng là Tôn giả Nan-đề-mật-đa-la, nhưng vị thứ mười tám là pháp sư Huyền Trang, vị cao Tăng đời Ðường sang Ấn Ðộ thỉnh kinh. Ðến đời Tống niên hiệu Hàm Thuần năm thứ năm (CN 1269), ngài Chí Bàn viết quyển Phật Tổ Thống Ký, phủ nhận Nan-đề-mật-đa-la, đề xuất nên đưa hai vị Tôn giả Ca-diếp và Quân-đồ-bát-thán vào hàng mười tám vị La-hán. Sau đó lại có người thay hai người sau cùng là cư sĩ Pháp Tăng (Ðạt-ma-đa-la) và Bố Ðại hòa thượng (người Trung Quốc tin là hóa thân của Phật Di Lặc). Qua dời nhà Thanh, vua Cao Tông thay Tôn giả Ca-diếp bằng Hàng Long La-hán và Tôn giả Di Lặc bằng Phục Hổ La-hán. Sau này, người ta tôn thờ 18 vị la hán nhưng chẳng nhớ ai là ai
1 người cảm ơn SuTieu cho bài viết.
ThyThy trên 23-02-2011(UTC) ngày
ThyThy Offline
#5 Đã gửi : 23/02/2011 lúc 09:49:34(UTC)

Danh hiệu: Gà Giò

Gia nhập: 24-01-2011(UTC)
Bài viết: 22
Man
Đến từ: Xòn Gài

Thanks: 12 times
Được cảm ơn: 4 lần trong 4 bài viết
Cám ơn SuTieu rất nhiều, giờ mới biết hết tất cả A-La-Hán.
ThyThy chỉ thấy trong phim võ Thiếu Lâm có Thập Bát La Hán Quyền -> Chắc là có 18 La Hán rồi.
Khi đánh hay la tên các vị La Hán ra.
SuTieu Offline
#6 Đã gửi : 23/02/2011 lúc 09:51:15(UTC)

Danh hiệu: Gà Trưởng Thành

Gia nhập: 18-02-2011(UTC)
Bài viết: 110
Đến từ: SinhCat.,JSC

Cảm ơn: 10 lần
Được cảm ơn: 25 lần trong 22 bài viết
Phật Di Lặc

Xuất thân:
Ngài người dòng Bà-la-môn ở Nam-Thiên-Trúc; thân sinh tên là Ba-bà-Lợi, họ A-Dật-Ða, tên là Di-Lặc. A-Dật-Ða nghĩa là Vô năng thắng, hạnh tu và lòng Từ Bi của Ngài không ai sánh kịp, Di-Lặc dịch là Từ thị, nghĩa là có lòng Từ rộng lớn. Sở dĩ gọi là Từ thị là vì khi mẹ Ngài chưa thọ thai thì từ tâm rất kém, khi thọ thai Ngài thì phát tâm từ bi. Lại trong một kiếp trước, Ngài làm vị tiên tên là Nhất Thế Trí Quang, nhờ Ðức Phật dạy pháp tu Từ tâm tam muội, Ngài tu pháp ấy đến khi thành Phật, nên gọi Ngài là Từ thị.

Quá trình tu hành: Ngài có nhiều kiếp lắm, xin nêu 1 kiếp cho ThyThy rõ

Sau khi Ðúc Phật Thích Ca nhập diệt, Ngài hiện thân làm một vị Hòa thượng tại đất Minh Châu huyện Phụng Hóa tên là Khê Thử. Mình Ngài rất to lớn, tánh tình hoan hỷ nói năng khác thường, ngủ nghỉ không chọn sang hèn. Ngài thường quảy đãy vải đi khất thực, đem về nuôi trẻ con, và thường làm những việc rất ly kỳ, mắt phàm không thể hiểu được. Người đời thường gọi là Bố Ðại Hòa Thượng

Tại sao Ngài chưa thành Phật?Khi Ðức Phật Thích Ca thành Phật, Ngài mới lên chức vị Bồ Tát bổ xứ, nghĩa là sẽ thành Phật trong một đời sau. Ngài được Ðức Phật Thích Ca thọ ký sẽ thành Phật Di Lặc sau này tại hội Long Hoa (Ðến khi nhơn loại sống lâu trên tám vạn tuổi, Ngài mới hiện sanh và thành Phật dưới cây Long Hoa.)
ThyThy Offline
#7 Đã gửi : 23/02/2011 lúc 09:55:42(UTC)

Danh hiệu: Gà Giò

Gia nhập: 24-01-2011(UTC)
Bài viết: 22
Man
Đến từ: Xòn Gài

Thanks: 12 times
Được cảm ơn: 4 lần trong 4 bài viết
8 vạn tuổi khi nào mình sống được như vậy trời
SuTieu Offline
#8 Đã gửi : 23/02/2011 lúc 10:05:11(UTC)

Danh hiệu: Gà Trưởng Thành

Gia nhập: 18-02-2011(UTC)
Bài viết: 110
Đến từ: SinhCat.,JSC

Cảm ơn: 10 lần
Được cảm ơn: 25 lần trong 22 bài viết
Bồ Tát

Bồ Tát là một hành giả sau khi hành trì các Ba-la-mật-đa đã tựu Phật quả, nhưng nguyện không nhập Niết-bàn khi chúng sinh chưa giác ngộ.

Thy Thy đã thỏa mãn chưa? Cần SuTieu giải thích gì nữa không?
Mà Trụ Trì phải xử chú này thôi, vào chùa mà không chịu tu, kinh sách đầy kho mà không đọc, há chẳng phí công Xiao xin sách về sao
SuTieu Offline
#9 Đã gửi : 23/02/2011 lúc 10:08:34(UTC)

Danh hiệu: Gà Trưởng Thành

Gia nhập: 18-02-2011(UTC)
Bài viết: 110
Đến từ: SinhCat.,JSC

Cảm ơn: 10 lần
Được cảm ơn: 25 lần trong 22 bài viết
Originally Posted by: ThyThy Go to Quoted Post
8 vạn tuổi khi nào mình sống được như vậy trời

Nhân loại chứ không phải 1 người, Tây Lịch thì đã 2000 năm rồi, theo Phật Lịch thì nhân loại đã sống được trên 2500 tuổi, còn lâu mới được 8vạn năm hehe
ThyThy Offline
#10 Đã gửi : 23/02/2011 lúc 10:16:13(UTC)

Danh hiệu: Gà Giò

Gia nhập: 24-01-2011(UTC)
Bài viết: 22
Man
Đến từ: Xòn Gài

Thanks: 12 times
Được cảm ơn: 4 lần trong 4 bài viết
thanks SuTieu nhìu. Hiểu rồi.
à à
mà Pháp Sư SuTieu có nhận bói toán mà, cho Thy Thy đặt gạch trước đi :D
cần có thông tin gì để bói vậy???
đền ơn bằng 1 ly cafe 12k đc ko :D
Ai đang xem chủ đề này?
Guest (13)
2 Trang12>
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Green-Grey Theme Created by Ingo Herbote (WatchersNET.de)
Powered by YAF | YAF © 2003-2010, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.675 giây.